Miêu tả và tập tính Cá_voi_xanh

Kích thước

View of a blue whale and its bow wave, showing the blowholeThe blow of a blue whaleThe small dorsal fin of this blue whale is just visible on the far left.

Cá voi xanh là loài động vật lớn nhất được biết từ trước đến nay trong lịch sử quả đất.[25][26] Một trong những chi khủng long lớn nhất trong Đại Trung SinhArgentinosaurus[27] chỉ nặng có 90 tấn, bằng với một con cá voi xanh trung bình.[28]

Cá voi xanh có một thân hình to lớn, dài và thon giúp chúng dễ dàng rẽ nước khi di chuyển. Chúng có bộ  dạ trơn màu xanh xám và phầm bụng có màu sáng hơn kèm theo đó là một loạt nếp gấp trên cổ có thể dãn ra gấp bốn lần khi chúng ăn. Đuôi của Cá voi xanh thẳng và chia ra thành hai mái chèo giúp đẩy thân hình độ sộ của chúng dưới áp lực của dòng nước.

Cá voi xanh thuộc họ cá voi ” không răng “, có nghĩa là thay vì dùng răng, chúng có khoảng 395 tấm sừng mọc ở hàm trên và được dùng để lọc thức ăn từ nước. Như những họ hàng của mình, cá voi xanh cũng có hai lỗ trên lưng, được dùng để đẩy không khí cũ và nước biển ra khổi phổi khi chúng trồi lên để hô hấp.

Trong vòng 7 tháng đầu sau sinh, con cá voi xanh con uống khoảng 400 lít (110 gal Mỹ) sữa mỗi ngày, nên khối lượng nó tăng lên rất nhanh vào khoảng 90 kilôgam (200 lb) mỗi 24 giờ. Thậm chí lúc mới sinh nó đã nặng 2.700 kilôgam (6.000 lb)—bằng khối lượng một con hà mã (hippopotamus) trưởng thành.[9] Cá voi xanh có bộ não tương đối nhỏ (6,92 kilôgam (15,26 lb)), chỉ bằng khoảng 0,007% khối lượng cơ thể của nó.[29] Dương vật của nó cũng lớn nhất trong tất cả các sinh vật sống[30] và cũng giữ kỷ lục Guinness thế giới là có dương vật dài nhất.[31] Chiều dài trung bình của dương vật thay đổi nhưng thường vào khoảng 2,4 m (8 ft) đến 3,0 m (10 ft).[32]

A blue whale skull measuring 5,8 mét (19 ft)

Thức ăn

Cá voi xanh hầu như chỉ ăn moi lân, với một lượng nhỏ là động vật chân chèo.[25] Các loài động vật phù du cá voi ăn tùy vào vùng biển mà nó sống. Ở Bắc Đại Tây Dương là Meganyctiphanes norvegica, Thysanoessa raschii, Thysanoessa inermisThysanoessa longicaudata;[33][34][35] ở Bắc Thái Bình Dương là Euphausia pacifica, Thysanoessa inermis, Thysanoessa longipes, Thysanoessa spinifera, Nyctiphanes symplexNematoscelis megalops;[36][37][38] còn tại Nam Bán Cầu là Euphausia superba, Euphausia crystallorophias, Euphausia valentini, và Nyctiphanes australis.

Dù không sở hữu bộ răng thực sự, nhưng Cá voi xanh vẫn bị xếp vào nhóm động vật ăn thịt. Chúng sống dựa  trên một chế độ ăn uống mà chủ yếu bao gồm các nhuyễn thể, giáp xác nhỏ và đôi khi là những loài cá nhỏ. Cá voi xanh ăn bằng cách bơi về phía bầy con mồi và những nếp gấp trên cổ cho phép cổ họng của chúng mở rộng, hớp lấy một ngụm nước khổng lồ vào túi chứa thức ăn được tạo ở hàm dưới và khép  miệng chúng lại. Sau đó, nước được đẩy ra ngoài nhưng hàng ngàn sinh vật nhỏ bé được giữ lại bởi các tấm sừng hàm lọc thức ăn của chúng và sau đó các sinh vật ấy sẽ bị nuốt vào.

Cá voi xanh có thể tiêu thụ lên đến 6 tấn con mồi hàng ngày trong suốt những tháng mùa hè ở vùng biển lạnh và giàu thức ăn. Mặc dù Cá voi xanh ăn một lượng thức ăn khổng lồ vào mùa hè, nhưng chúng hầu như không ăn gì khi di chuyển đến vùng nước ấm vào mùa đông.

Một con cá voi xanh trưởng thành có thể tiêu thụ tới 40 triệu con moi lân một ngày.[26] Chúng luôn kiếm ăn trong những vùng có mật độ moi lân nhiều nhất, thỉnh thoảng tiêu thụ đến 3.600 kilôgam (7.900 lb) moi lân chỉ trong vòng một ngày.[25] Nhu cầu năng lượng cho một cá thể cá voi xanh trưởng thành là khoảng 1,5 triệu kilocalo.[39] Mức tiêu thụ thức ăn của cá voi xanh biến động theo mùa. Chúng thường phải tiêu thụ một lượng lớn moi lân ở vùng nước lạnh giàu thức ăn ở vùng biển Châu Nam cực trước khi di chuyển tới các vùng biển ấm hơn gần xích đạo để sinh sản.[40][41][42]

Cá voi xanh thường lặn xuống tới 100 m (330 ft) để kiếm ăn vào ban ngày trong khi vào ban đêm, hoạt động này chủ yếu diễn ra ở gần mặt nước. Thông thường chúng có thể săn mồi liên tục mà không cần trở lên mặt nước trong 10 phút, tuy nhiên, có ghi nhận về các trường hợp lặn liên tục tới 21 phút. Cá voi xanh thường vô tình ăn cả những loài cá nhỏ, mực và các loài giáp xác nhỏ khác do cách thức săn mồi của chúng.[43][44]

Tiếng kêu

Cá voi xanh được mệnh danh là những ca sĩ lãng du khắp các đại dương. Vì cá voi xanh có thể phát ra âm thanh siêu trầm ở tần số 14 Hz. Và đó cũng là thứ âm thanh lớn nhất trên thế giới, lớn hơn cả tiếng rít của máy bay phản lực với cường độ 200 decibel. Nếu so sánh với tiếng hét của loài người ở 70 decibel, âm thanh cao hơn 120 decibel gây nguy hiểm cho tai người.

Tiếng kêu của cá voi xanh
đã được cho chạy nhanh hơn 10 lần âm thanh gốc.
Ghi tại Đại Tây Dươnng (1)

Ghi tại Đại Tây Dương (2)

Ghi tại Đại Tây Dương (3)

Ghi tại đông bắc Thái Bình Dương

Ghi tại nam Thái Bình Dương

Ghi tại tây Thái Bình Dương

Trục trặc khi nghe các tập tin âm thanh này? Xem hướng dẫn.

Người ta không rõ mục đích của những tiếng kêu này là gì. Richardson et al. (1995) nêu ra một số lý do có thể:[45]

  1. Giữ khoảng cách giữa các cá nhân
  2. Nhận biết loài và cá nhân trong loài
  3. Truyền đạt thông tin (ăn, báo động, tán tỉnh)
  4. Giữ tổ chức xã hội (ví dụ như các tiếng kêu giữa con đực và con cái)
  5. Location of topographic features
  6. Đánh dấu vị trí nguồn thức ăn

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Cá_voi_xanh http://124.16.218.4/index.php http://124.16.218.4/list.php?page=2 http://159.226.115.21/rddl/CN/article/downloadArti... http://www.environment.gov.au/cgi-bin/sprat/public... http://www.sararegistry.gc.ca/virtual_sara/files/c... http://www.balaenopteramusculus.com/ http://www.britannica.com/animal/blue-whale http://www.gmanetwork.com/news/video/77783/24oras/... http://www.google.com/books?id=JgAMbNSt8ikC&pg=PA7... http://www.guinnessworldrecords.com/world-records/...